X

Thursday, July 24, 2014

Kinh hoàng với video: HCM nói 29 thứ tiếng!


Thật nhục nhã cho loài csVN.


Begin forwarded message:
From: "Duc Vu Tran
Date: July 24, 2014 at 5:32:13 PM EDT


Subject: [ChinhNghiaViet] RE: LÝ TỐNG: HỒ CHÍ MINH "ĐỌC BÀI TRẢ LỜI VIẾT SẴN" TIẾNG VIỆT CŨNG KHÔNG XONG NÓI GÌ NGOẠI NGỮ???!!! Kinh hoàng với tiến sĩ XHCN & và tài "làm chủ" ngoại ngữ của Boác!
Reply-To: ChinhNghiaViet
 
            Trân Trọng Kính Chuyễn :
            Kính Thưa Chiến Sĩ Tự Do , Học Giả Lý Tống và Qúy Vị
            Tài liệu lịch sử về " Những  Chặn Đường Lịch Sử Đen Tối của đảng cộng sản Việt Nam " và các tài liệu cá nhơn của tên quốc tặc Hồ chí Minh được Học Giả Lý Tống nghiên cứu và nghiệm luận ... là một công  trình lịch sử vô cùng hiệu dụng trong công cuộc giãi trừ độc tài cai trị và độc tôn lãnh đạo của đảng cộng sản VN hiện nay .
             Trình bày một dữ kiện lịch sử một cách trung thực , chính xác , đầy đủ ... về bất cứ sự kiện gì , cũng cần viết bằng một văn phong trong sáng , nhơn bản , khoa học và minh triết ... là điều mà thế nhơn trân trọng  :  Vậy Nghiệm :
     -  Các  công trình sưu khảo văn hoá , chính trị ...  của Chiến Sĩ Tự Do Lý Tống đã minh chứng Ông là Môt Học Giả " Tri- Hành " hợp nhứt .
     - Các vấn đề trong " Nghi Án Lịch Sử " của Ông Nguyễn Ngọc Qùy  và Bài khảo luận " Câu Hỏi Đã Cũ " của Người Lính Già Oregon... : là những  bài khảo luận theo đúng  " Tiến Trình Biện Chứng " với những " định đề về sự xác định , phủ định và tính phủ định như là "  phủ định tính "  ( Negation of negation )  trong Hiện Tương Học của Tinh Thần .
           Luận :
     - Sự dối trá và lừa bịp ... của  con người cộng sản , nói lên  bản chất xấu xa lừa lọc , xảo trá , man rợ , tàn ác ... của chính nó , vì ý thức ( Consciousness ) là tri thức tương quan với sự thực thì không bao giờ  được người cộng sản công nhận ,  tôn trọng ( Ví dụ tên Hồ chí Minh  có trình độ học vấn tương đương lớp sáu =  cấp tiểu học , thì việc viết sai , nói sai ngoại ngữ ... là sự thực , và tên này tính khí tàn độc , tư tưởng thì đầy hận thù ... làm gì có " Tư Tưởng Văn Hóa ,  Minh Triết " mà y có được cái gọi là " Tư Tưởng Hồ chí Minh " ) ...  do đám văn nô vẽ rắn thêm chân ... bắt buộc cả toàn đảng , nhơn dân , học trò học những cái do bọn " văn nô " phịa ra :   Bọn Ác Ôn Côn Đồ Việt cộng thiệt là phường  vô liêm sĩ tận cùng !

       Trân Trọng Kính Mời Thế Nhơn nghiệm luận >
       Thành kính cảm tạ Chiến Sĩ Tự Do Lý Tống về công trình sưu khảo lịch sử này

                                         Trân Trọng
                                     Vương Thiên Vũ
                     ( Lão Đưa Đò Trên Giòng Sông Biến Dịch )



 LÝ TỐNG: HỒ CHÍ MINH "ĐỌC BÀI TRẢ LỜI VIẾT SẴN" TIẾNG VIỆT CŨNG KHÔNG XONG NÓI GÌ NGOẠI NGỮ???!!! 

Kinh hoàng với tiến sĩ XHCN & và tài "làm chủ" ngoại ngữ của Boác!





image





Preview by Yahoo




image





Preview by Yahoo




On Monday, July 14, 2014 7:16 AM, "hnvtnkoeln > wrote:




From: 

Date: 2014-07-12 11:37 GMT+02:00

Subject: Fwd: Kinh hoàng với tiến sĩ XHCN & và tài "làm chủ" ngoại ngữ của Boác!

To: "GLTG73






Kinh hoàng với video: HCM nói 29 thứ tiếng!
Tôi không nhớ ai đã nói câu nầy: "Đừng bao giờ lý luận với những thằng ngu; chúng sẽ lôi bạn xuống ngang hàng với trình độ của chúng, và sẽ đánh ngã bạn với kinh nghiệm".
(Never argue with idiots; they'll drag you down to their level, and beat you with experience).

Dĩ nhiên với kinh nghiệm ngu dân hoá và bị ngu dân hoá của chúng. Nhưng câu nói của khối óc  vĩ đại Albert Einstein "Không thể chống lại những thằng ngu vì chúng quá đông" xác nhận một sự thật kinh hoàng là chế độ và chủ nghĩa cộng sản đang thống trị nước Việt Nam đã sản xuất thành công một sự ngu dốt chân thành (sincere ignorance) của người dân và một sự đần độn ý thức (consciencious stupidity) hàng ngũ trí thức tinh hoa lãnh đạo.

Nếu sự hèn hạ và khiếp nhược của bọn cầm quyền CSVN trước tham vọng bành trướng xâm  lược của Tàu Cộng sẽ dẫn tới tai họa mất nước thì sự ngu dân của "đội ngũ" trí thức XHCN sẽ đưa dân tộc đến sự diệt vong.

Mời các ACE "thưởng thức" một đoạn trích trong video của Ráo sư Hoàng Chí Bảo kể chuyện về Hồ Chí Minh tại huyện Tĩnh Gia (Thanh Hóa) ngày 28-5-2013 (phần 1/3)


Trong video này, Ráo sư Hoàng Chí Bảo nói rằng Hồ Chí Minh "làm chủ" (tức là có thể đọc, viết, giao tiếp, dịch) được 29 ngoại ngữ, chưa kể ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số ở trong nước. Cũng theo Hoàng Chí Bảo thì trong tất cả các lãnh tụ trên thế giới, Hồ Chí Minh chỉ đứng sau Anghen (Engels) - người làm chủ được 35 ngoại ngữ. LOL.

Nhưng sự thật thì có phải như vậy không?

Cho dù có là một thiên tài thì để "làm chủ" được một ngoại ngữ sẽ phải mất rất nhiều thời gian và tâm sức, ngoài ra vốn ngoại ngữ đó còn phải được trau dồi thường xuyên nếu không sẽ bị mai một.

Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh từng đi qua mấy chục quốc gia khác nhau, tuy nhiên, hầu hết trong số đó Hồ Chí Minh chỉ ở lại trong khoảng 1-2 tuần để làm việc hoặc để thực hiện những nhiệm vụ mà Quốc tế Cộng sản đã chỉ thị. Trong mấy chục nước đó, chỉ có một số nước mà Hồ Chí Minh ở lại tương đối lâu (từ 1 năm trở lên) là Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô (Nga), Trung Hoa và Thái Lan.

Lúc bấy giờ, tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Nga là những ngôn ngữ phổ biến trên thế giới và gắn bó với đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh nên Hồ Chí Minh có thể biết được những ngoại ngữ này.

Đối với tiếng Trung Hoa, tuy không phải là ngôn ngữ phổ biến trên thế giới nhưng lại được Hồ Chí Minh học từ nhỏ và gắn bó nhiều nhất trong đời hoạt động cách mạng và chính trị của mình.

Trên trang báo điện tử của Đảng Cộng sản Việt Nam
có viết rằng Anghen [Engels] chỉ biết 21 ngoại ngữ chứ không phải là 35 ngoại ngữ như GS. Hoàng Chí Bảo đã nói trong video. Ngoài ra, bài viết này cũng chỉ nói đến việc Hồ Chí Minh sử dụng các tiếng Hoa, Pháp, Anh, Nga chứ không hề nhắc đến các ngoại ngữ khác.

Như vậy, Hồ Chí Minh "làm chủ" được 29 ngoại ngữ chỉ là sản phẩm tuyên truyền của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm tôn vinh Hồ Chí Minh lên làm bậc "thiên tài" hiếm có trong lịch sử thế giới mà thôi. 
Sự thật thì Hồ Chí Minh chỉ biết tối đa là 4 ngoại ngữ, nếu sắp xếp theo trình độ từ cao xuống thấp thì là : tiếng Tàu, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga

Đây là những ngoại ngữ mà Hồ Chí Minh tiếp xúc nhiều nhất và sử dụng nhiều nhất trong cuộc đời mình.

Nhưng đối với 4 ngoại ngữ này, có lẽ Hồ Chí Minh cũng chỉ biết đọc, viết và giao tiếp mà thôi, chứ "dịch khoa học" được như Hoàng Chí Bảo nói thì e rằng Hồ Chí Minh chưa đủ trình độ.

Mặc dù trong suốt nửa thế kỷ nay đảng CSVN luôn ca ngợi Hồ Chí Minh là "thiên tài" hiếm có với với việc "làm chủ" mấy chục ngoại ngữ khác nhau, nhưng điều rất khó hiểu là từ trước đến nay, đảng CSVN không bao giờ cho nhân dân Việt Nam thấy Hồ Chí Minh giỏi ngoại ngữ như thế nào.

Dưới đây là video duy nhất có đủ cả hình và tiếng mà Hồ Chí Minh sử dụng ngoại ngữ(tiếng Pháp), nhưng chúng ta thấy rằng Hồ Chí Minh giao tiếp bằng tiếng Pháp (ngoại ngữ mà Hồ Chí Minh am hiểu đứng thứ hai) không giỏi như Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tuyên truyền, đó là chưa nói đến "dịch khoa học" bằng tiếng Pháp thì trình độ còn phải cao hơn thế rất nhiều.


Tuy nhiên, video này lại do Viện tồn trữ tài liệu Thính Thị Quốc gia Pháp (Institut National de l'Audiovisuel, INA) công bố chứ không phải là do đảng CSVN - kẻ bấy lâu nay vẫn cố ý bưng bít sự thật về trình độ ngoại ngữ của Hồ Chí Minh để nhằm mục đích  tuyên truyền mị dân.


Nghi án lịch sử: trình độ tiếng Pháp của HCM

Tác giả: Nguyễn Ngọc Quỳ

Gần đây, trên các Diễn Đàn, thấy phổ biến rộng một tài liệu video của INA (Viện Quốc Gia Pháp tồn trữ tài liệu Âm thanh và Hình ảnh) : Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn bằng tiếng Pháp, tháng 6, 1964.

Rất nhiều người Việt ở Pháp được nghe nói đến Nguyễn Ái Quốc là tác giả cuốn « Le procès de la colonisation française « (Bản Án chế độ thực dân Pháp) xuất bản năm 1925 (1926, theo bản lưu trữ ở Đại Thư Viện Quốc Gia, Paris).

Trong Hồi ký Trần Dân Tiên do Hồ Chí Minh viết để tự bốc thơm, tác giả ghi : « Ông Nguyễn chỉ viết một quyển sách duy nhất là quyển « Bản án chế độ thực dân Pháp » ; quyển này gồm những tài liệu chống thực dân Pháp, trích trong những sách của người Pháp viết để ở thư viện quốc gia « (trang 37). Thuỵ Khuê đã sưu khảo văn bản cùng nội dung và kết luận chắc nịch là Hồ Chí Minh chưa đọc quyển « Bản Án chế độ thực dân Pháp ». Nói gì đến là tác giả ?

Không mấy khi có dịp nghe Hồ Chủ tịt mến yêu trả lời bằng tiếng Pháp, ta cũng nên nghe qua để thưởng thức trình độ siêu-Việt của Người.

Thật là thất vọng ! Vì những lỗi Pháp ngữ vô số, những lỗi văn phạm sơ đẳng. 
Làm sao với khả năng chừng đó mà có thể viết được cuốn Le procès de la colonisation française ??

Thêm một huyền thoại tan vỡ. Ô hô !
Than ôi cho đảng. Than ôi cho những người trong nước còn chưa biết là đã bị bịp.

(Bút Vàng chú thích những chỗ sai bằng cách tô màu đỏ và màu tím)

HCM, Nguyên văn phỏng vấn và trả lời bằng tiếng Pháp 

 Est-ce que vous pensez, Monsieur le Président, qu’il y a une solution militaire à la guerre 

du Sud Viêt Nam ? 
Non, parce que ah, vous savez bien que le peuple Viêt Nam, c’est un Un,(un un là cái gì ? Đâu có ai nói tiếng Pháp như thế ?) et le pays du Viêt Nam, c’est Un. Les Américains veulent faire une guerre d’agression, comme qu’ils disent, (thừa chữ que) une guerre non déclarée. 

Comme vous savez aussi, vous avez pu lire dans la presse mondiale, que plus la guerre prolonge, (phải là "la guerre se prolonge" thì mới đúng) plus les Américains et leurs valets, n' est ce pas, comment dire ça, (se tournant vers quelqu’un à côté), sa lầy… s’enliser… et plus, ils supportent des échecs comme vous savez là récemment.

Par conséquent, la guerre ne peut pas durer éternellement, et je suis très heureux que
 les politiciens haut placés français ont reconnu cela(aient reconnu mới đúng văn phạm).
Vous pensez que le général de Gaulle pourrait en quelque sorte, à un certain moment, arbitrer le conflit ? 

Arbitrer ! Qu’est-ce que vous comprenez par le mot arbitrer ? Nous ne sommes pas des équipes de foot ball. Rire et ricanement.

Au-delà des Accords de Genève si je ne me trompe, une idée du général de Gaulle est la neutralisation de tout le Sud-Est Asiatique. Est-ce c’est une idée qui vous paraît intéressante ? 

Comme j’ai déjà dit quelquefois, c’est une idée intéressante, mais ça dépend la volonté
(depend de la volonté mới đúng) de ces peuples, et… la manière comment on procède.
(bồi, dịch nguyên văn tiếng Việt) . à la réaliser.

C’est une grande question. n’est-ce pas ?. et je ne peux pas dire que je suis d’accord, n’est-ce pas ?
…je ne dis pas que je ne suis pas d’accord, n’est-ce pas ? Parce que.. vous dites fleurs, fleurs ; il y a beaucoup de sortes de fleurs, il y a des roses, des blanches, des rouges, etc... des fleurs qui sentent bon, d’autres qui ne sentent pas bon… , mais on dit fleurs, n’est-ce pas ?


Monsieur le Président, nous avons constaté avec chagrin au cours de notre voyage au Nord Viêt Nam,

 que l’influence française est devenue à peu près inexistante dans votre pays. Les moins de 25 ans ne comprennent plus du tout le français. Et je me demande si, à votre idée, des rapports peuvent se rétablir tels que la France continue à jouer… une sorte de rôle culturel ? 

Avec la France surtout, et avec tous les autres pays, nous voulons avoir une coopération amicale, 
culturelle, économique, etc… , mais je suis sûr que vous ne voulez pas avoir (phải xóa bỏ chữ avoir mới đúng), n’est-ce pas, que la France ait l’influence qu’elle avait avant, … c’est une autre chose … 
mais coopération culturelle, économique, qu’est ce qu’il y a encore ?, sportive par exemple, etc…etc… nous, nous désirons.

Si la guerre se cristallise au Sud et se poursuit encore pendant quelques années,

 pensez-vous que l’avenir économique du Nord Viêt Nam soit viable ?
Je suis sûr que ça (?) non seulement viable (câu thiếu verbe être, phải viết là c'est), mais ça progresse. 
Parce que vous avez vu vous-même, vous avez constaté vous-même que, ici, 
nous travaillons beaucoup,
notre peuple travaille beaucoup, avec abnégation, n’est-ce pas ?, et avec dévouement, avec enthousiasme.
D’un côté, nous travaillons pour…, comment dirais-je, pour principalement, n’est-ce pas, de nos propres forces, et aussi nous avons l’aide fraternelle des pays socialistes.
Jusqu’ici, nous avons déjà réalisé des progrès, pas tant comme nous le voulons,
 nous avons réalisé des progrès et dans l’avenir, 
nous progressons nous-mêmes.

Vous mentionnez là l’aide des pays socialistes. Est-ce que cette aide ne s’est pas trouvée légèrement compromise à la suite du conflit idéologique entre la Russie et la Chine ? 

Non,…… parce que ces questions, n’est-ce pas, n’est pas différence idéologique (ces questions là số nhiều, phải dùng ne sont pas mới đúng) entre nos différents partis-frères, c’est nos affaires intérieures ; ça passera, et l’union…l’unité, ça se fera. Mais l’aide fraternelle continue, continuera, c’est très précieuse pour nous.

Certains ont l’impression chez nous, Monsieur le Président, que le Nord Viêt Nam se trouve actuellement assez isolé, asphyxié même, et, politiquement , il ne pourra difficilement éviter de devenir une sorte de satellite de la Chine. Qu’est-ce que vous répondez à ça ? JAMAIS !! (Comme un cri)


Nguyễn Ngọc Quỳ
Paris, 5-4-11

Butvang:
Ngoài ra ông ta (HCM) nói chuyện cái kiểu gì mà lúc nào cũng cứ phải chêm vào "n'est ce pas, n' est ce pas" .... 
để có thì giờ suy nghĩ, giống như người Việt nói tiếng Mỹ 
để có thì giờ suy nghĩ, giống như người Việt nói tiếng Mỹ không rành cứ thêm "you know ... you know...."
 như vậy đâu phải là người giỏi tiếng Pháp mà có khả năng viết các bài bình luận đăng báo?

 Nói tóm lại Hoà Chí Minh là kẻ đạo văn , nhận vơ là tác giả những bài bình luận của nhóm Le Patriot (Nguyễn Ái Quốc) 
gồm 5 người là Phan Văn Trường, Phan Châu Trinh. Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh và Nguyễn Tất Thành (HCM) .... 
đồng thời còn ăn cắp cả cái tên Nguyễn Ái Quốc của nhóm, để xài làm tên riêng của mình, 
nói tóm lại Hồ Chí Minh là tên ăn cướp, hèn chi hắn làm chủ đảng cướp Việt Cộng là đúng rồi, cướp chính quyền, 
cướp ruộng đất, cướp tiền của tài sản người dân, cướp tên Hồ Chí Minh của cụ Hồ Học Lãm ..... 
Hà Nội người ta vẫn còn thờ phụng tên cướp quốc tế trong cái lăng to đùng đen chùi chũi, ngu ơi là ngu !!!!!


NLGO phê bình tiếng Pháp của HCM -
trích trong bài MỘT CÂU HỎI ĐÃ CŨ: HỒ CHÍ MINH RA ĐI CỨU NƯỚC HAY KIẾM CƠM?
người lính già oregon 
Câu trả lời đã nằm vững chắc như tảng đá trong lá đơn xin học Trường Thuộc Địa Pháp
 của anh bồi trên tàu Amiral Latouche Tréville tên Nguyễn Tất Thành, alias Nguyễn Ái Quốc, alias Hồ Chí Minh, alias “Bác Hồ vĩ đại vô vàn kính yêu” của bọn Cộng Phỉ hiện nay.

Năm 1983, giáo sư Nguyễn Thế Anh và nhà sử học Chánh Đạo, tức Vũ Ngự Chiêu, tức nhà văn Nguyên Vũ1, 
tình cờ bắt gặp tại Văn Khố Đông Dương ở Aix-En-Provence và kho tài liệu trường Thuộc Địa, Paris,
hai lá đơn viết tay của Nguyễn Tất Thành xin vào học Trường Thuộc Địa Pháp.
Một lá gửi cho ông Bộ trưởng Thuộc Địa, lúc ấy, tôi nghĩ, là Albert Lebrun, căn cứ theo ngày tháng ghi trong
 lá đơn của Thành (15/9/1911và nhiệm kỳ của ông Bộ trưởng (27/6/1911 - 12/1/1913),

và một lá (sao y bản chánh, chỉ đổi tên người nhận, gọn hơn vì bỏ một vài chi tiết nhỏ2) gửi cho Tổng thống Pháp,bấy giờ là Armand Fallières, nhiệm kỳ 18/2/1906 - 18/2/1913. Nhưng tôi không tin Nguyễn Tất Thành, khi ấy, biết được tên của hai vị này, vì nếu biết, theo cách thức viết công thư, anh ta đã phải ghi tên của hai vị kèm với chức tước. Ngoài ra, trong cả hai lá đơn, Nguyễn Tất Thành rất hà tiện về dấu chấm, dấu phẩy sau hoặc giữa mỗi câu –điều rất quan trọng trong cách hành văn Pháp. Cũng không thèm ký tên, không ghi trình độ học vấn, không đính kèm bằng cấp –mà anh ta làm sao có được?


Sao y đơn viết tay (có bốn dấu phẩy, không dấu chấm nào) của Nguyễn Tất Thành:
Marseille le 15 Septembre 1911Monsieur le Président de la République J’ai l’honneur de solliciter de votre haute bienveillance la faveur d’être admis à suivre les cours de l’Ecole Coloniale comme interne Je suis actuellement employé à la Compagnie des Chargeurs Réunis “Amiral Latouche Tréville” pour ma substanceJe suis entièrement dénué de ressources et avide de m’instruire. Je désirerais devenir utile à la France vis à vis de mes compatriotes et pouvoir en même temps les faire profiter des bienfaits de l’InstructionJe suis originaire de la province de Nghê An en AnnamEn attendant une réponse que j’espère favorable, agréez, Monsieur Le Président, l’assurance de ma reconnaissance anticipée  Nguyễn Tất Thành, né à Vinh en 1892, fils de Mr. Nguyễn Sinh Huy (sous-docteur es- lettres) Etudiant français quốc ngữ caractères chinois


Bản dịch theo nguyên bản bởi Người Lính Già Oregon

Marseille ngày 15 tháng chín 1911Kính thưa Tổng Thống Cộng Hòa Tôi có vinh hạnh khẩn cầu Ngài ưu ái cho tôi được nhận vào học tại Trường Thuộc Địa với tư cách nội trú Hiện nay tôi là nhân viên của hãng Chargeurs Réunis “Amiral Latouche Tréville” để mưu sinh Tôi hoàn toàn không có tài sản và ham muốn học hỏi. Tôi ước ao trở thành hữu ích cho nước Pháp đối với đồng bào của tôi đồng thời có  thể giúp họ lợi dụng những lợi ích của Học Vấn Tôi quê Nghệ An, Trung Kỳ

Trong khi chờ đợi một sự trả lời mà tôi hy vọng là thuận lợi, Ngài hãy nhận nơi đây lòng biết ơn trước của tôi
Nguyễn Tất Thành, sinh tại Vinh năm 1892, con trai ông Nguyễn Sinh Huy (phó tiến sĩ văn chương), học tiếng Pháp, quốc ngữ và chữ Nho

Lá đơn, đóng dấu nhận ngày 20/9/1911 bởi văn phòng Tổng thống Pháp, nằm dưới lớp bụi thời gian suốt 72 năm (1911-1983), cũng như huyền thoại ra đi tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh, đã bị lôi ra
 ánh sáng, gây ngỡ ngàng thích thú cho nhiều người quốc gia muốn đi tìm bằng chứng của sự thật, 
hoặc trong trường hợp này, của sự dối trá. 

Một khám phá “vĩ đại” bất ngờ, “cực kỳ” quan trọng, đã đập vỡ bức tường đen kiên cố che giấu, qua bao năm, cái lý lịch tối om của một anh bất tài vô tướng, vô nghề, vô sản, vô gia đình, vô lý tưởng, nghèo đói, phải tha 
phương cầu thực, nhưng lại được bọn đệ tử cuồng tín từ Nguyễn Khánh Toàn đến Trường Chinh, từ Tố Hữu đến Phạm Văn Đồng, cùng một phường khố rách áo ôm, bồng bế tung hê và đút ống đu đủ thổi lên tận mây xanh. Hồ Chí Minh, dĩ nhiên, tưởng không ai có thể biết, đã giấu nhẹm, kể cả với những đồng chí thân tín nhất, về việc này, cho đến khi lẳng lặng vào nằm trong lăng, hy vọng thời gian sẽ xóa nhòa chứng tích. 

Đám đồ đệ ngây ngô không biết, hoặc biết mà giả vờ ngây ngô, nên cứ theo sách
 tự bơm của Bác (Trần Dân Tiên) mà rêu rao rằng Bác qua Pháp để trở về cứu nước 
thật. Một vài nghiên cứu gia Mỹ, Pháp thân Cộng cũng biết (tại sao không?), trước cả hai
 ông Vũ Ngự Chiêu và Nguyễn Thế Anh, về sự hiện hữu của hai lá đơn, nhưng giữ im lặng, 
cho đến khi hai ông phanh phui chúng ra. Đặc biệt, tác giả Pháp, Christiane Pasquel Rageau,
 một nữ tín đồ tôn sùng Hồ Chí Minh vô điều kiện, đã viết quyển Ho Chi Minh trong đó bà ta,
 mặc dù là một nhân viên Thư viện Quốc gia Paris có nhiều cơ hội tìm tòi, tra cứu hai lá đơn ấy,
 cũng đã lờ đi, không nhắc nhở.

Cho đến thời đại internet thì không còn gì có thể giấu dưới ánh mặt trời. 
Trên sách vở, báo giấy và báo mạng, người ta thấy đầy dẫy những sao bản hai lá đơn
 viết tay và các thư khác của Hồ Chí Minh, kể cả những bức thư tình, những thư từ qua lại 
của các viên chức Pháp, những tài liệu khui ra việc Hồ Chí Minh đi Pháp kiếm ăn, trình độ 
Pháp ngữ của ông ta v.v..., trong số có tác phẩm của sử gia Trần Gia Phụng, theo thiển ý, 
được viết rõ ràng, với đầy đủ sử liệu, một cách khoa học và thuyết phục nhất.

I. Phản ứng của VC về lá đơn của Nguyễn Tất Thành :
Rồi biết không thể giấu được nữa, đám đệ tử mới đây đành phải thú nhận, nhưng do thói 
quen hàm hồ và ăn gian nối dối trước sự thật, bọn họ vẫn cố ngụy biện, cãi chày cãi cối.
 Trường hợp lá đơn này, tôi xin mở ngoặc lớn, cũng giống như chuyện Hồ Chí Minh có vợ, có con.
 Trước những tài liệu vô phương chối cãi, bọn họ mới trơ tráo lên tiếng bênh Bác rằng 
đó là chuyện thường tình của con người. Nghe mà thấy ứa gan, muốn chửi thề mấy tiếng.

Trở lại chuyện lá đơn.
a) Cũng vậy. Giáo sư VC Bùi Đình Phong, chẳng hạn, ngày 3/1/2010 (gần một năm sau
 DVD “Sự thật về Hồ Chí Minh” của Nhóm Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ phát hành, tháng 7, 2009,
 và 27 năm sau ngày hai ông Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu khám phá và công bố
 hai lá đơn, tháng 6, 1983) đã viết một bài có đoạn như sau: “Chúng ta hoàn toàn không 
giấu giếm sự kiện này. Hơn hai mươi năm trước, Giáo sư Sử học Đinh Xuân Lâm đã có 
bài viết với tiêu đề: “Cần làm sáng tỏ một số điểm xung quanh lá đơn xin học của 
Nguyễn Tất Thành năm 1911”, đăng trong Tạp Chí Cộng sản, số 5-1987. Vấn đề là 
ở chỗ, hiện nay một số người vẫn nghĩ rằng chúng ta không công bố lá đơn này, và quan 
trọng hơn là nhiều người không hiểu đúng việc làm của Nguyễn Tất Thành. Còn các 
thế lực thù địch thì cố tình bóp méo sự thật lịch sử”.

Bùi Đình Phong nói láo không có căn: Lá đơn “bị” khám phá và phổ biến rộng rãi năm 1983,
 bài của Đinh Xuân Lâm đăng trong Tạp Chí Cộng sản năm 1987, nghĩa là bốn năm sau,
 vậy mà y dám nói “chúng ta hoàn toàn không giấu giếm sự kiện này” thì con nít cũng không
 tin nổi. Lại nữa: ai “bóp méo sự thật lịch sử”? Chính y và đồng bọn! Sự thật nằm trong hai 
lá đơn còn nguyên si trong thư viện Pháp, bóp méo thế nào được?

Sau đó Bùi Đình Phong ra sức biện hộ cho Hồ Chí Minh: “Đây [việc xin học] là cách 
làm chứ không phải mục đích của Hồ Chí Minh”. Y hàm ý, đại khái, Hồ Chí Minh muốn học 
hỏi nền văn minh của Pháp để sau này về nước giúp ích cho đồng bào. Về điểm này, bọn 
bồi bút VC khác, như Lữ Phương, cũng hùa theo, cho rằng lá đơn của Nguyễn Tất Thành 
đã “phản ánh chủ trương rất rõ của Phan Chu Trinh: phải học văn hóa khai sáng và dân chủ 
của Pháp để canh tân đất nước”. Lữ Phương còn viết rằng Phan Văn Trường, thuộc nhóm 
Phan Chu Trinh, ở Paris, đã thảo lá đơn này giùm cho Nguyễn Tất Thành, và sở dĩ Thành 
muốn vào học trường Thuộc Địa là để “xây dựng phong trào yêu nước ngay trong lòng thực
 dân”. Nghĩa là chui vào nhà địch để diệt địch! Thế đấy! Bồi bút VC đứa nào cũng mơ 
ngủ, hoặc mắc bệnh tâm thần. Hai “dịch giả” Diên Vỹ và Hoài An cũng đổ thừa cho cụ 
Phan Chu Trinh, tội nghiệp cụ, vì lúc ấy cụ đâu đã biết tên phụ bếp trên tàu Pháp ở Marseille 
Nguyễn Tất Thành là đứa nào!

Những tên bồi bút ấy đã quên một điều quan trọng: chính Thành đã tự giác, tự
 khai, tự tố, nghĩa là đã nói rõ bằng giấy trắng mực đen lý do khiến anh ta phải xin 
vào học trường Thuộc Địa, và lại còn với tư cách interne, tức nội trú, nghĩa là miễn 
trả tiền ăn học.
Lý do rành rành ra đó: anh ta than nghèo, không có tiền sinh sống (je suis entièrement dénué 
de ressources). Nói nôm na, muốn kiếm cơm. Nhưng để đỡ ngượng, phải vớt vát bằng cái
 cớ “thanh cao”: muốn học hỏi (avide de m’instruire).

b) Nguyễn Tất Thành còn đi xa hơn. Trong cả hai lá đơn cùng một nội dung ấy có một câu
 rất quan trọng mà những người quốc gia chúng ta đã phải vất vả mở mắt cho những tên 
bồi bút VC thấy, mà bọn họ vẫn giả mù sa mưa, không (muốn) thấy. 
Đó là câu: 
“Tôi ao ước trở thành hữu ích cho nước Pháp đối với đồng bào của tôi...”
 (Je désirerais devenir utile à la France vis à vis de mes compatriotes).

Thế này là thế nào? Trường Thuộc Địa (École Coloniale) là một trường chuyên môn
 có mục đích đào tạo những học viên các nước bị đô hộ (Đông Dương, Phi Châu) 
để sau này về bản xứ trở thành những quan chức hữu ích cho thực dân Pháp, 
nghĩa là phục vụ mẫu quốc, cũng giống như École Normale đào tạo những giáo sư dạy
 cấp trung học, và ENA (Ecole nationale d’administration) là trường đào tạo cán bộ hành 
chánh. Còn nếu muốn học để hấp thụ học thuật, văn minh của Pháp –điều mà bọn bồi bút 
VC vẫn dựa lên để cắt nghĩa việc anh ta xin vào École Coloniale– Nguyễn Tất Thành phải l
àm đơn xin vào những trường khác, thiếu gì. Viết câu trên cho Tổng thống và Bộ trưởng 
Bộ Thuộc Địa Pháp, rõ ràng Thành nuôi mộng làm quan cho Tây, mà làm quan là để 
hưởng bổng lộc, vinh hoa phú quý, là đè đầu đè cổ dân lành, giống như cha của anh 
ta trước kia (cho nên mới có câu “vis à vis de mes compatriotes”). Nếu không làm quan 
trong tương lai mà muốn “trở thành hữu ích cho nước Pháp” thì còn cách nào đây? Vô lẽ đăng 
lính khố xanh, khố đỏ?

Biết rõ như thế, cho nên Bùi Đình Phong đã láu cá, cố tình lờ ba chữ à la France
 (= đối với nước Pháp) để dịch ăn gian, lừa bịp người dân và lũ đảng viên trong nước
 không có cơ hội đọc nguyên bản và một số thân Cộng hải ngoại, phần đông là trí thức,
 nhưng u mê, hoang tưởng, hoặc già lú lẫn, như sau: “Tôi muốn sẽ trở nên có ích đối 
với đồng bào của tôi...”. Dịch như vậy, câu đó hoàn toàn có nghĩa khác, không làm ai thắc 
mắc, khen ngợi là đàng khác. Và cùng với nhiều nhà nghiên cứu VC khác, Bùi Đình Phong vẫn
 mặt trơ mày bóng, gân cổ cãi, lại còn đem tên sử gia Pháp thân Cộng Daniel Hémery11 ra 
làm con ngáo ộp: “Sự thật rõ như ban ngày mà những kẻ nuôi dụng tâm xấu vẫn ác ý cố 
tình xuyên tạc. Để hiểu rõ hơn về lá đơn, hãy đọc Êmơri (Daniel Hémery) –một nhà sử học 
Pháp chuyên nghiên cứu và giảng dạy lịch sử cận-hiện đại Việt Nam tại Trường Đại học 
Pari [sic] VII, trong bài viết:“Về lá đơn xin vào học Trường Thuộc địa năm 1911 của người
 thanh niên Hồ Chí Minh”. Êmơri khẳng định:“Tuyệt đối không thể căn cứ vào lá đơn xin học
 năm 1911 để gán ghép cho Nguyễn Tất Thành ý định sau khi học xong sẽ trở thành người 
cộng tác với chính quyền thuộc địa”. Vì Bùi Đình Phong không cho biết xuất xứ câu và bài 
của Hémery (đăng ở đâu, khi nào, nguyên văn) và y có thể hoặc phịa ra, hoặc cố tình dịch sai, 
chúng ta không cần bàn thêm.

II. Trình độ Pháp ngữ trong lá đơn:
Ai cũng biết lá đơn của Nguyễn Tất Thành bị bác và Bộ Thuộc Địa lấy cớ là những thí sinh phải
 được Phủ Toàn quyền Đông Dương giới thiệu và gửi sang, nghĩa là anh bồi tàu Nguyễn 
Tất Thành đã muốn làm quan tắt bằng cách nộp đơn tắt. Sau đó Thành phải nhờ người anh
 làm ở Toà khâm sứ Pháp can thiệp, nhưng không thành công.

Đó là một cách nói. Sự thật có lẽ khác, nếu hoàn toàn chỉ dựa trên khả năng Pháp ngữ hạn
 hẹp của Nguyễn Tất Thành, một người chưa học lên bậc trung học. Trong khi đó, bọn 
đệ tử bồi bút, như Ngô Trần Đức và Lê Công Thành, không tiếc lời ca tụng trình độ Pháp 
văn và các ngoại ngữ khác của “Người” (tức Nguyễn Tất Thành, Hồ Chí Minh) mà bọn họ 
cho là siêu tuyệt, bởi lý do [rất buồn cười] “Người” đã học tiếng Pháp ở cấp primaire 
(tiểu học) và làm việc trên tàu buôn Tây và hằng ngày nói chuyện bằng tiếng Tây 
[bồi, dĩ nhiên] với những anh bồi đồng nghiệp. Ngược lại, những độc giả và sử gia hải 
ngoại đều thấy rõ trình độ Pháp ngữ của Nguyễn Tất Thành trong lá đơn rất kém
Nhưng chưa ai phân tích nó kém ở chỗ nào.

Tôi xin phép mạo muội phụ họa dẫn giải, không phải để khoe mẽ, bàn chuyện ruồi 
bu, hoặc chẻ sợi tóc làm tám, nhưng cốt chứng minh cho bọn bồi bút VC trong 
nước cũng như tay sai VC hải ngoại hiểu lý do thật tại sao lá đơn bị bác và việc cho
 Nguyễn Ái Quốc đã viết những bài báo bằng Pháp ngữ chống chế độ thực dân tại 
Paris là bịa đặt, tưởng tượng lố bịch.

Hai lá đơn sai đủ thứ lỗi (hoặc cách hành văn không chỉnh) lớn nhỏ, khác nhau (10 cho lá
 đơn gửi tổng thống, 12 gửi Bộ trưởng). Những chữ viết xiên là do tôi, cốt nêu rõ các lỗi hoặc 
vấn đề chưa ổn.

Marseille le 15 Septembrea 1911
Monsieur le Président de la République
J’ai l’honneur de solliciter de votre haute bienveillance la faveur d’être admis à suivre les cours
 de l’Ecole Coloniale comme interne Je suis actuellement employé à la Compagnie des 
Chargeurs Réunis “Amiral Latouche Tréville” pour ma substance
Je suis entièrement dénué de ressources et avide de m’instruire.
Je désirerais devenir utile à la France vis à vis de mes compatriotes et pouvoir en même 
temps les faire profiter des bienfaits de l’Instruction
Je suis originaire de la province de Nghê An, en Annam
En attendant une réponse que j’espère favorable, agréez, Monsieur Le Président, 
l’assurance de ma reconnaissance anticipée Nguyễn Tất Thành, né à Vinh en 1892, fils de Mr. 
Nguyễn Sinh Huy (sous-docteur es- lettres ) Etudiant français, quốc ngữ, caractères 
chinois.

a) Đúng theo phép viết đơn, phải có dấu phẩy sau Marseille. Không viết hoa tên tháng
 (cf Le Secrétaire Idéal, Elisabeth Lange, Marabout Service, 1970, tr.150)

b) Viết Monsieur le Président đủ rồi. Sau Président phải có dấu phẩy.

c) employé: thường có nghĩa nhân viên văn phòng, khác với tay chân (ouvrier), ví dụ employé 
de banque. Có thể Nguyễn Tất Thành không hiểu nghĩa, hoặc hiểu, mà cố tình mập mờ đánh
 lận con đen, vì nếu viết thẳng aide-cuisinier (phụ bếp), chức vụ chính thức, sẽ ảnh hưởng đến 
việc xin học.

d) Tên chiếc tàu không được để trong ngoặc kép.

e) Lỗi (nặng) về dùng chữ: phải viết subsistance (sinh sống, sinh nhai) thay vì substance (chất, bản thể). Lỗi này được thấy trong cả hai lá đơn, nên không thể gọi là lỗi vô ý. Trong tờ đơn gửi Bộ trưởng Thuộc Địa, người ta còn đọc : ... pour ma substance à soi. Vô nghĩa. Tôi cố đoán Nguyễn Tất Thành muốn nói gì trong “substance à soi” mà chịu thua.

f) Cách hành văn: “entièrement dénué” và “avide” về lời và ý không đi với nhau bởi conjonction  (liên từ) et, cho nên muốn viết cho xuôi tai, người ta phải lặp lại je suis. “Je suis entièrement dénué de ressources et je suis avide de m’instruire”, và liên từ et trong vế thứ hai của câu và mạch văn hàm ý nhưng (mais), hơn là và. Trường hợp dùng liên từ mais, thì không cần lặp lại je suis: “Je suis entièrement dénué de ressources, mais avide de m’instruire”.

g) Lỗi chánh tả: vis-à-vis (có hai gạch nối)
h) Lỗi (nặng) văn phạm: Khi dùng gérondif (en + participe présent) En attendant... , trong trường hợp này, chủ từ của động từ chia (=động từ chính) phải là je (= tôi), ngôi thứ nhất, nhưng Nguyễn Tất Thành đã dùng agréez (= ông hãy chấp nhận, mode impératif, mệnh lệnh cách), ở ngôi thứ hai, là sai. Vì người chờ đợi câu trả lời (en attendant une réponse) là “tôi”, chứ không phải “ông”. Phải viết lại: “En attendant une réponse [...] je vous prie d’agréer ...”, tương tự câu tiếng Anh: “While waiting for your answer, I request that you accept...” chứ không phải “While waiting for your answer, accept...”


i) sous-docteur: chữ này không có trong ngữ vựng Pháp. Phó bảng, trong chế độ thi cử
 xưa, có nghĩa tiến sĩ đậu vớt (repêché, inscrit au deuxième tableau). Dù vớt hay không,
 vẫn là tiến sĩ, nghĩa là có thể dịch : docteur mà không sợ mang tiếng ăn gian. Nguyễn Tất 
Thành không biết điều này.

j) Lỗi chánh tả: ès lettres (è chứ không phải e, và không có gạch nối)

k) Etudiant: Tại sao không viết thành một câu cho nó đường hoàng? Viết kiểu này, quả thật, là kiểu tiếng Tây bồi... tàu, nghĩa là ráp chữ. Nếu étudiant là một danh từ (nom) thì phải có en, (étudiant) en (français), v.v... Nhưng Nguyễn Tất Thành chưa bao giờ là étudiant (sinh viên đại học) thì chữ này phải hiểu là một động từ. Và nếu là một động từ 
dùng ở hiện tại phân từ (verbe au participe présent, nhưng tại sao phải dùng mode participe 
ở đây?) có nghĩa j’étudie, j’ai étudié, thì phải viết (étudiant) le (français), v.v...

Chưa kể trong đơn gửi Bộ trưởng Bộ Thuộc Địa có thêm hai điều phạm nữa:

1) thay vì désirerais, Thành viết sai désirérais (không phải é mà e).

2) cuối đơn có câu “mes plus respectueux hommages” (= sự tôn trọng kính trọng nhất của tôi)
, nghe không ổn: trong hommage tự nó hàm chứa respectueux rồi, thêm respectueux không
 cần thiết. Mà nếu muốn thêm để thêm nặng ký cũng được, nhưng nên bỏ superlatif (mes)
 plus, quá dư, quá đáng: mes respectueux hommages. Hoặc viết mes hommages không thôi
 cũng đủ lắm rồi.

Viết một lá đơn bằng tiếng Pháp ngắn như thế và nhiều lỗi, khuyết điểm như thế cho các
 viên chức cao cấp nhất của nước Pháp thì bị từ chối là phải, oan ức nỗi gì. Nguyễn Tất 
Thành bồi tàu và đệ tử bồi bút cần nhớ rằng người Pháp là chúa kỳ thị về ngôn ngữ và
 gia thế (không phải màu da, chủng tộc như ở Mỹ), và thi tuyển vào học các trường của Tây,
 dù ở Việt Nam và dù trả tiền, không phải dễ, nhất là vào thời Nguyễn Tất Thành, lại còn xin học
 nội trú, 

giống như học bổng bây giờ, càng khó gấp bội. Điều kiện tiên quyết, vô cùng quan trọng,
 là phải rất giỏi tiếng Pháp (như Phạm Quỳnh, dù tự học), có bằng cấp do Pháp cấp hay giấy
 tờ chứng minh học lực, và phải là giàu có... Dù là con một ông quan huyện (tiến sĩ Hán học, 
phạm tội đánh chết tù nhân và bị cách chức), một anh phụ bếp nghèo, trên răng dưới dép (râu),
 của một chiếc tàu buôn Pháp mà đòi xin học trường đào tạo các quan lại tương lai phục 
vụ chế độ thực dân, thì tôi không tin trong lịch sử đô hộ tại Việt Nam đã xảy ra một trường 
hợp nào mà người Pháp rộng lượng hoặc đặc cách chấp nhận như thế. Nguyễn Tất Thành 
nghèo mà ham, cứ tưởng bở, và các đệ tử tẩu hỏa nhập ma của anh ta không hiểu gì hết, tha
 hồ múa mép, nói hươu nói vượn, kể cả bây giờ.

III. Lời kết:

Việc Nguyễn Tất Thành xin học vào trường Thuộc Địa, per se, tự nó, không có gì là xấu, trái 
lại có thể rất tốt. Quả thế, theo tài liệu của sử gia Vũ Ngự Chiêu (Chú thích 1, ở dưới), một 
số nhân vật nổi tiếng ở Việt Nam một thời như các ông Bùi Quang Chiêu, Phan Kế Toại,
 Trần Trọng Kim v.v... cũng từng là học viên của trường ấy. Ngoài ra, nếu Nguyễn Tất Thành
 kém Pháp ngữ cũng không có gì đáng chê cười. 

Tuy nhiên, điều làm người ta khó chịu, bực mình, khiến phải cất công đi tìm, moi ra cho bằng được sự thật, hoặc sự dối trá, nằm trong hai lá đơn của Hồ Chí Minh, đó là thái độ xu nịnh và luận điệu xuẩn động,
 ngông cuồng của bọn đệ tử ông Hồ, trước kia và hôm nay, vừa ngu dốt vừa lố bịch 
vừa ngoan cố. Lúc trẻ, ông ta qua Pháp để kiếm ăn, thực sự và rõ ràng, chứ chẳng 
phải tìm đường cứu nước cứu non gì ráo, như những cái đầu mê sảng thiếu chất 
xám, đầy chất vàng kia đã bịa đặt, rêu rao. Và huyền thoại Hồ Chí Minh ra đi tìm 
đường cứu nước được bọn cuồng tín và cả chính Hồ Chí Minh, một tên đại bịp, đại
gian, đại ác, dựng nên để bảo vệ sự nghiệp của ông ta, của Đảng và bộ hạ.

Giữa năm 2011, Nguyễn Tấn Dũng, tên cựu du kích xã, thủ tướng thuộc loại chó nhảy bàn độc
, vừa được đồng bọn tái phong chức, đã đọc trước Quốc Hội bù nhìn bài diễn văn trong đó
 vẫn còn cái câu mà bọn chúng thi nhau nhai đi nhai lại như những con vẹt ngu ngốc từ năm
 này qua năm khác: “chúng ta phải luôn học tập lời dạy và noi gương của Bác Hồ vĩ đại, vô 
vàn kính mến...” Không đứa nào dám bỏ Bác ra, kể cả những anh, những chị phản tỉnh cuội 
tại Paris, như Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Dương Thu Hương.... Bỏ Bác ra, bọn chúng chỉ là rắn
 mất đầu, dù cái đầu đã bị đồng bào hải ngoại đập giập từ khuya. Cho nên cái xác của Bác
 phải được giữ mãi trong lăng, mặc dầu đã thối rữa, để hễ có dịp mang ra hù dọa, nhắc nhở 
đồng bào và đảng viên.

Việc Nguyễn Tất Thành, alias Hồ Chí Minh, làm đơn xin học làm quan cho Tây bị từ chối, 
phải đi lêu bêu kiếm sống tại London, tại Paris, và gia nhập Đệ tam Cộng sản Quốc tế, rồi về nước 
nhập cảng một thứ chủ nghĩa Cộng sản quái thai, quái vật, quái đản, và một thứ văn hóa 
bần cố nông, tiêu diệt những giá trị trí thức nhân bản và truyền thống, gieo bao nhiêu thảm 
họa cho con người, thú vật, cỏ cây và giết hại bao nhiêu sinh linh của nước Việt Nam tội
 nghiệp, những người duy tâm cho đó là sự an bài của Thượng Đế, và những người theo 
phái khắc kỷ chấp nhận như vận nước.\\

 Còn tôi, thực tế hơn, lại oán giận hai ông Tổng thống và Bộ trưởng Thuộc Địa Pháp. Đơn của Nguyễn Tất Thành có kém, sai lỗi, gia thế của anh có nghèo hèn thì hai ông cũng nên nhắm mắt cho anh ta vào học đại đi, cứ cho anh ta nuôi mộng công hầu khanh tướng đi, mất mát gì, được như vậy thì anh ta đã chẳng phải gia nhập đảng Xã Hội, rồi đảng Cộng sản Pháp, không sang Nga, rồi sang Tàu, không trở về Việt Bắc, chui rúc ở hang Pắc Pó hôi thối, nằm ôm gái dân tộc hoặc tự thêu dệt những huyền thoại lố bịch, kêu gào đánh cho Tây cút Mỹ nhào, và hôm nay nhân dân Việt Nam đã đỡ khổ xiết bao và nhớ ơn hai ông biết chừng nào. Bây giờ thì trễ quá rồi, hai ông ơi, và trời ơi!

Nhờ các sách báo của những người quốc gia chống Cộng, nhất là DVD về Huyền Thoại Hồ 
Chí Minh của Nhóm LM Nguyễn Hữu Lễ, những mảng vôi trên bức tường huyền thoại 
nhớp nhúa đầy ảo tưởng về thân thế và sự nghiệp của Bác, kể cả tập thơ con cóc ăn cắp
 và những sách báo bằng Pháp ngữ chống thực dân do người khác viết mà Bác nhận vơ làm của 
mình, đã lần lượt rơi vỡ tan tành. Vậy mà vẫn chưa hết. Đó là việc Nguyễn 
Tất Thành đã từng là thành viên của Hội Tam Điểm Pháp (la franc-maçonnerie française, t
hù nghịch với đảng Cộng sản Quốc tế –điều mà sử gia Trần Gia Phụng đã tiết lộ, nhưng
 chưa có học giả VC nào lên tiếng) và bức hình Nguyễn Ái Quốc đứng đọc diễn văn 
trong Đại hội Tours tháng 12, 1920 (mà VC vô cùng hãnh diện) là giả mạo, những việc
 đó, tôi tin chắc bọn đệ tử VC trong và ngoài nước chưa đứa nào biết, hoặc biết mà vẫn cố 
bưng bít.

CHÚ THÍCH

1. Trong cuộc phỏng vấn sử gia Vũ Ngự Chiêu về công trình nghiên cứu lịch sử liên quan
 đến Hồ Chí Minh (Thứ sáu, 5 tháng 11, 2010) do Nguyễn Vĩnh Châu thực hiện, ông Vũ Ngự 
Chiêu cho biết:

“Ðầu tháng 2/1983, khi làm việc trên kho tài liệu trường Ecole coloniale, tức học hiệu huấn l
uyện các viên chức thuộc địa Pháp,
 trên đường Oudinot, quận 7, Paris, tôi vô tình khám phá ra nhiều hồ sơ học viên người Việt 
tại học hiệu này, như Bùi Quang Chiêu, Ðèo Văn Long, Phan Kế Toại, Trần Trọng Kim, 
Lê Văn Miễn, v.v... tổng cộng khoảng 97 người (CAOM (Aix), Ecole Coloniale, cartons 27, 
33 & Registers). Mục đích của tôi là tìm hiểu về những viên chức thuộc địa Pháp cùng thế 
hệ Tây học Việt Nam đầu tiên (ngoài những người tốt nghiệp các lớp huấn luyện ở các tu 
viện như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trường Tộ, v. v...) để dùng cho chương Biến đổi văn hóa
 và xã hội của luận án Tiến sĩ. Thật vô tình, tìm thấy tập hồ sơ xin nhập học nhưng không 
được chấp nhận của Nguyễn Tất Thành, tức HCM sau này, cùng một người bồi khác được
 chủ Pháp mang về Paris. Ngoài hai lá thư viết tay gửi Tổng thống Pháp và Bộ trưởng 
Thuộc Ðịa, đề ngày 15/9/1911 tại Marseille, còn thêm ba tài liệu của Hội đồng quản trị trường.
 Trong biên khảo tam ngữ Một ngôi trường khác cho Nguyễn Tất Thành (Paris: 1983) tôi đã 
trình bày 
khá rõ: Người mà chúng ta biết như HCM sau này đã rời nước không vì muốn tìm đường 
cứu nước, mà chỉ vì những tao ngộ bản thân (cha bị cách chức, tống giam, nên phải bỏ học
 nửa chừng, v. v...). Từ cổng hậu đóng kín của trường Thuộc Ðịa, HCM sẽ tìm thấy cánh cửa 
mở rộng của Ðại Học Phương Ðông của Liên Sô Nga 12 năm sau.

Năm 1991, trong tập Vàng Trong Lửa, hai Giáo sư Trần Văn Giàu và Trần Bạch Ðằng đã 
nhắc đến tập sách nhỏ này, nhưng không nêu tên tác giả Vũ Ngự Chiêu và Nguyễn Thế Anh. 
Nên thêm rằng sử gia Nguyễn Thế Anh đồng ý viết chung với tôi tập sách trên, cũng như phổ
 biến các tài liệu trên tờ Ðường Mới, nhưng ông Anh không phải là người phát hiện những tài
 liệu trên. Ít tháng sau, khi tôi đang làm việc ở Aix-en-Provence, Nguyễn Thế Anh cho tôi biết
 hai sử gia Pháp, tức Hémery và Brocheux, tuyên bố họ đã khám phá ra tài liệu này từ trước.
 Tôi chẳng mấy quan tâm. Vấn đề là tại sao Hémery và Brocheux không công bố các tài liệu 
trên trước chúng tôi (vào mùa Hè 1983)? Và những người làm phim truyền hình chiến tranh VN
 cũng sử dụng tài liệu trên.

Một số học giả Mỹ cho rằng khi công bố tư liệu trên, tôi đã có ý muốn discredit [hạ giá] HCM. 
Nhưng sự thực lịch sử chỉ là sự thực lịch sử. Ðáng trách chăng là thái độ thiếu nghiêm chỉnh 
và lương tâm nghề nghiệp của một số học giả (kể cả William A. Williams). Vì tư tâm hay một lý
 do nào đó, họ đã gạt bỏ những tư liệu đi ngược lại lập luận và diễn dịch [thiên tả] của họ.
 Ðiều này ảnh hưởng không ít đến công trình nghiên cứu của tôi. [...] Thật khó tin, nhưng có
 thực, là một số sách dùng dạy sử cho các lớp năm thứ nhất hay thứ hai đại học Mỹ vẫn còn 
ghi HCM đã rời nuớc năm 1912 để tìm đường cứu nước. Có người còn tuyên bố chẳng cần 
tìm hiểu thêm về HCM, dù tác phẩm của họ chứa đầy những lỗi lầm sơ đẳng về Ðảng CSVN. 
"As far as the Americans are concerned," người ta nói, ngần ấy kiến thức về HCM đã quá đủ. 
"Life goes on!"

2. Những chi tiết đó là: “substance à soi”, “mes plus respectueux hommages”.

3. Đọc Lịch sử Việt Nam, tập 2, Ủy ban Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1985, do Nguyễn Khánh 
Toàn chủ biên ; Chủ Tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp, do Ban Nghiên cứu Lịch sử 
Đảng Trung ương biên soạn, in lần thứ tư, nxb Sự Thật, 1975 ; Những mẩu chuyện về đời 
hoạt 
động của Hồ Chí Minh, Trần Dân Tiên (tức HCM), nxb Sự Thật, Hà Nội, 1976.

4. Xem chú thích 1, ý kiến của Vũ Ngự Chiêu, đoạn cuối.

5. Christiane Pasquel Rageau, Ho Chi Minh, Editions Universitaires, 1970, trong Collection 
Les Justes.

6. Trần Gia Phụng, Những câu chuyện Việt sử, tập 2, Toronto, 1999, tr. 306-319 : 
“Huyền thoại ra đi tìm đường cứu nước”, Việt sử đại cương, tập 4 (1884-1945), nxb Non 
Nước, Toronto, 2008, tr. 380-424: Nguyễn Ái Quốc: “Vì chủ đích kiếm sống chứ không có chủ
 đích chính trị, Nguyễn Tất Thành liên tục thay đổi thế đứng chính trị, tìm cơ hội tiến thân. 
Xin vào học trường Thuộc Địa (Paris) không được, ông theo những nhà chính trị dân tộc 
Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường. Từ lập trường dân tộc, ông vào đảng Xã Hội Pháp. 
Từ đảng Xã Hội, ông gia nhập đảng Cộng Sản Pháp, dầu ông tự nhận rằng ông không hiểu
 chủ nghĩa CS là gì ? Đang ở trong đảng CS Pháp, ông qua hội Tam Điểm, một tổ chức đối
 nghịch với đảng CS. Đang là thành viên Tam Điểm, Nguyễn Tất Thành được đại diện 
ĐTQTCS tuyển chọn để đưa sang Nga vào tháng 10-1922, ông liền chấp nhận ngay việc 
tuyển chọn này và bỏ hội Tam Điểm” (404). 

7. Trường Lam, trong “Bác Hồ của chúng ta”, Talawas Bloc, 24/3/2010: “Những năm 
gần đây có nhiều người nói hoặc viết rằng Bác Hồ có con... Đối với cá nhân tôi và có lẽ của
 đông đảo người dân Việt ta, đó là điều đáng mừng. Một con người kiệt xuất mà từ giã cõi 
đời không để lại cho hậu thế tí di duệ nào khiến ai chẳng cảm thấy đau lòng ? [...] Hãy để Bác
 mãi mãi vĩ đại mà giản dị giữa lòng dân tộc, giữa những tâm hồn Việt Nam, trong sự kính yêu
 của những người dân Việt Nam.” OK. Nhưng vấn đề không nằm ở chỗ sinh lý bình thường ấy,
 cái tệ hại khốn nạn của Hồ Chí Minh là: - chấp nhận được thần thánh hóa bởi bộ hạ, 
đóng vai một tên đạo đức giả trọn đời độc thân để có thì giờ chăm lo việc nước - 
ông ta đã không bao giờ nhìn nhận những đứa con rơi, thậm chí còn thủ tiêu một 
trong những người mẹ (Nông Thị Xuân), và những con rơi này không dám nhìn 
nhận ông ta là cha (Nguyễn Tất Trung, Nông Đức Mạnh) - lấy cả người yêu của đồng 
chí (Nguyễn Thị Minh Khai), thay vợ như thay sơ-mi.

8. Bùi Đình Phong, bài đăng ngày 3/1.2010 trong mục Hồ Chí Minh toàn tập, Tác phẩm
 Hồ Chí Minh tiêu biểu. Xem thêm Đinh Xuân Lâm, Góp phần tìm hiểu cuộc đời và tư tưởng 
Hồ Chí Minh, nxb CTQG, 2005, tr. 273, 275.

9. Lữ Phương, “Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh”, trong tủ sách Talawas, 26.1.2007. 
Diên Vỹ và Hoài An, Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến, dịch từ quyển Ho
 Chi Minh: The Missing Years của Sophie Quinn Judge, đăng trong Thư mục: Hồ Chí Minh, 
ngày 23-8-2009.

10. Trần Gia Phụng, Việt sử đại cương, tập 4, sđd, tr. 409, chú thích 13

11. Daniel Émery, Ho Chi Minh, de l’Indochine au Vietnam, Paris, Gallimard, 1990

12. Bùi Đình Phong, xem chú thích 8

13. Trần Gia Phụng, Việt Sử Đại Cương, sách đã dẫn, tr. 384 : “Tại Sàì Gòn, Nguyễn 
Tất Thành gởi thư đề ngày 31-101911 cho anh là Nguyễn Tất Đạt (Cả Khiêm hay
 Khâm), đang làm việc tại Tòa khâm sứ Pháp tại Huế, và nhờ anh vận động xin cho
 Thành vào học Trường Thuộc địa”.

14. Ngô Trần Đức, “Về những bài viết ký tên Nguyễn Ái Quốc tại Pháp từ 1919 đến 1923”
 (Trao đổi lại với Thụy Khuê), đăng trên internet : “Vấn đề cần làm rõ là vào thời điểm đó, khả 
năng tiếng Pháp của anh Thành đã đạt tới trình độ nào? Theo tiểu sử, chúng ta biết khi ở
 trong nước, anh Thành đã vào học trường Quốc học Huế, đã hoàn thành chương trình lớp
 cao đẳng (cours supérieur). Trong lời khai với sở mật thám Huế ngày 19-3-1920, ông 
Nguyễn Tất Đạt cũng nói rõ: “Il obtint son certificat d’études primaires en 1908 et fut admís 
au Quôc Hoc”. Khi ra nước ngoài, anh Thành làm việc trên tàu viễn dương cho các hãng 
Chargeurs Réunis rồi hãng Messageries Maritimes (Năm Sao) đều là các hãng vận tải biển 
của Pháp, chỉ chuyên nói tiếng Pháp. 

Tại Marseille ngày 15 tháng 9 năm 1911, anh Thành đã 
viết đơn bằng tiếng Pháp, gửi Tổng thống Cộng hòa Pháp, xin vào học Trường Thuộc địa, 
cuối thư có nói rõ: biết tiếng Pháp, quốc ngữ và chữ Hán. Tiếp theo, tại Sài Gòn ngày 31 
tháng 10 năm 1911 và tại New York ngày 15 tháng 12 năm 1912, anh Thành đã gửi hai bức
 thư cho Khâm sứ Trung Kỳ, một bức nhờ chuyển cho cha một ngân phiếu 15 $, một bức
 cho biết đã gửi cho cha là Nguyễn Sinh Huy 3 ngân phiếu nhưng mới chỉ nhận được một 
thư trả lời; thư tỏ ý muốn được biết địa chỉ và tình hình cha mình hiện nay sống ra sao. Những
 bức thư này được viết bằng tiếng Pháp với một cách diễn đạt gãy gọn, trong sáng và chuẩn 
xác về chính tả-ngữ pháp, chứng tỏ người viết đã có một trình độ vững vàng về tiếng Pháp. 
Thời gian đầu sang Anh, trong một lá thư gửi Phan Châu Trinh, anh viết: “Mấy bốn tháng rưỡi
nay thì chỉ làm với Tây, nói tiếng Tây luôn. Tuy ở Anh nhưng chẳng khác gì ở Pháp”. Điều đó
 cho thấy việc học nói và viết tiếng Pháp của anh Thành là một quá trình liên tục, vì vậy khi trở 
lại Paris, anh đã có thể nói và viết tiếng Pháp thông thạo, đó là điều dễ hiểu.

 Các mật vụ 
người Việt có nhiệm vụ theo dõi anh đều có báo cáo giống nhau, như mật báo của Đốc phủ
 Bảy (mật danh là Edouard) viết: “Anh ta nói được tiếng Anh và tiếng Pháp thông thạo, biết
 ít tiếng Đức và tiếng Trung Quốc”. Một nhà báo Mỹ đã phỏng vấn anh và đăng bài đó trên tờ 
Yi Che Pao, xuất bản ở Thiên Tân, số ra ngày 2-9-1919, đã xác nhận “Nguyễn Ái Quốc nói 
tiếng Pháp rất giỏi” (parle admirablement le français). 

Xem thêm Lê Công Thành, một tên
 nịnh hót “cực kỳ”, trong bài “Bác Hồ và nước Việt Nam” (trên internet, 4/6/2011) đã bơm 
Bác như sau: “Bác là một nhà chính trị lỗi lạc, đồng thời là một nhà báo, một nhà thơ, biết 
vẽ, biết đóng kịch và thấu hiểu các nền văn hóa kinh điển, lãng mạn và hiện đại, nói được 
nhiều ngoại ngữ của các dân tộc trên thế giới. Bác luyện cả võ công”.

15. Trần Gia Phụng, Việt Sử Đại Cương, sđd, tr. 386: “Theo tài liệu của đảng CSVN, từ năm
 1921, 
Nguyễn Ái Quốc khởi viết Bản án chế độ thực dân Pháp (xb ở Pháp năm 1925). Tuy nhiên,
 trong tờ trình của viên chánh kiểm soát quân đội và người Đông Dương tại Pháp, gởi toàn
quyền Đông Dương ngày 12-9-1923, nói về việc Nguyễn Ái Quốc viết và nói tiếng Pháp, y
 đã viết như sau : “...Những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc không phải do ông ta viết... Người 
Việt Nam ấy 
[Nguyễn Ái Quốc] chưa đủ khả năng nói và viết tiếng Pháp trôi chảy...” Riêng về hai lá đơn, 
Trần Gia Phụng viết trong Những câu chuyện Việt Sử, tập 2, sđd, tr. 308: “Không kể việc 
đúng sai về từ ngữ, văn phạm...” Nguyễn Văn Chức, trong bài “Hồ Chí Minh & Đảng CSVN”
 trên báo Thế Giới Ngày Nay, số 197, tháng 3-4, 2007, tr. 11: “Tiếng Pháp trong lá đơn xin học
 của Nguyễn Tất Thành quá kém...”

16. “Huyễn Thoại hay Huyền Thoại” (Hội Văn Hóa Việt phỏng vấn Gs Lê Hữu Mục về HCM,
 bài của Tinh Vệ, Diệu Tần, 22 Jun 2003, ghi chú thêm 10 Jan 2007): “Ngoài khoảng trên 20 
tựa sách, những bài diễn văn, bài báo, ông đã viết cuốn "Hồ Chí Minh không phải là tác giả
 Ngục Trung Nhật Ký" (1989-90) gây nhức nhối cho Cộng sản Việt Nam (CSVN). Cuốn sách 
này ông ra sức tập trung ý chí và khả năng hoàn thành chỉ trong một tháng. Sở dĩ ông phải 
viết nhanh như vậy để kịp phá vỡ huyền thoại HCM, "Nhân vật Văn hóa Quốc tế mà Tổ chức
 UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc) dự định tôn vinh. Ðây 
là chuyện cũ, nhưng cho đến bây giờ vẫn là mới cần nhắc lại để dẹp cái phao xẹp
 "Tư tưởng Hồ Chí Minh" mà nhóm bạo quyền cố bám vào để tàn Dân hại Nước. 
Với phương pháp dùng textology (văn bản học), hệ thống hóa lại, tìm ra những mâu thuẫn 
và sai lầm rất vững vàng, tác giả đã minh chứng rằng : HCM là kẻ đạo văn (đạo : ăn cắp, ăn 
cắp văn người khác). Chúng ta đã biết người 

CS dùng bất cứ phương tiện nào dù xấu xa, vô nhân, vô đạo, 
vô luân nhất để đạt đến mục tiêu. Mượn đầu heo nấu cháo, lợi dụng xương máu
 Dân lành để nhận công của đảng mình chưa đủ, họ còn muốn làm Anh hùng Văn hóa 
Quốc tế nữa. Nhóm bồi bút Viện Văn Học Hà Nội dựa trên sự mạo nhận của HCM
, ăn cắp văn của người khác, để thổi phồng tập thơ nhật ký lên một cách lố bịch
 và trơ trẽn”.

Người Lính Già Oregon
Portland, Mùa Quốc Hận, 14/4/201






Posted by: ly tong 








No comments:

Post a Comment

Thanks for watching

Popular Posts

Popular Posts